


LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay trên khắp thế giới, tiếng Anh không chỉ là một ngôn ngữ quốc tế trong các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, kinh tế, mà còn là một thứ ngôn ngữ trong hoạt động khoa học quốc tế. Ngay cả các diễn giả đến từ các cường quốc khoa học như Đức, Pháp, Hà Lan, Thụy Điển … cũng chỉ dùng tiếng Anh để trao đổi với đồng nghiệp quốc tế. Xét thấy tầm quan trọng của tiếng Anh và nhu cầu học tiếng Anh ngày càng cao, các nhà xuất bản đã tìm hiểu sâu hơn về nhu cầu và thể loại sách mà người học tiếng Anh cần. Có thể thấy nhu cầu học nghe đang rất được chú trọng và được đầu tư rất cao. Chính vì vậy, chúng tôi đã biên soạn ra cuốn “Luyện kỹ năng nghe và viết chính tả tiếng Anh” để giúp cho người học tiếng Anh vừa luyện kỹ năng nghe vừa đồng thời luyện kỹ năng viết chính tả.
Các bài nghe trong cuốn sách này được thực hiện bởi người bản xứ, với chất giọng Anh-Mỹ dễ nghe và kèm theo các tình huống vui nhộn tránh được sự nhàm chán và mệt mỏi mà mỗi khi học nghe các bạn thường gặp phải. Trong quá trình biên soạn cuốn sách này không thể tránh khỏi những sai sót nhất định. Rất mong nhận được sự đóng góp của các bạn để cho lần tái bản sau được tốt hơn.
— Bài 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý KHI LUYỆN NGHE VÀ VIẾT CHÍNH TẢ —
I. KINH NGHIỆM VIẾT CHÍNH TẢ
Một trong những kỹ thuật luyện nghe thường được sử dụng nhiều trong phương pháp dạy ngoại ngữ truyền thống, và cả hiện đại là viết chính tả (dictation). Mặc dù phương pháp này thường bị phê phán là không tự nhiên, buồn chán và tính giao tiếp thấp, nhưng nếu dùng chính tả để luyện nghe hiểu thì có thể có nhiều tác dụng ở những bình diện sau: Người nghe (nhất là người học châu Á) có cơ hội luyện nắm được trọng âm câu. Luyện cho người nghe vận dụng kiến thức ngôn ngữ (ngữ pháp, dựa vào âm nghe được đoán ra từ, vv) giúp cho quá trình nghe hiểu được hoàn thiện, và tạo ra được mối liên hệ giữa nghe và viết. Tôi xin giới thiệu với các bạn một số bài luyện chính tả. Hãy làm theo các bước sau:
Bước 1. Nghe một lần toàn bộ bài đọc, cố gắng hiểu càng nhiều càng tốt.
Bước 2. Nghe lại bài đọc qua các đoạn băng cần chép. Hãy chép thật chính xác những gì nghe được. Nếu không chép được, hãy để trống và điền vào sau. Một số dấu câu được sử dụng trong lần đọc này là “full stop = dấu chấm ( . ). comma = dấu phẩy ( , ). question mark = dấu hỏi (?)”
Bước 3. Quay trở lại phần đầu băng và nghe lại toàn bộ. 8 Viết chính tả tiếng Anh là một việc cần thiết giúp tăng khả năng nghe, đặc biệt là trong các cuộc thi IELTS, TOEFL… Kinh nghiệm của rất nhiều bạn đạt điểm cao hoặc tuyệt đối IELTS và TOEFL là nghe và chép lại toàn bộ những gì mình nghe được. Điều này không chỉ đảm bảo một cách chắc chắn là bạn hiểu toàn bộ nội dung của bài mà còn giúp bạn củng cố khả năng ghi nhớ, ngữ pháp, diễn đạt… vì khi bạn nghe một câu không có nghĩa là bạn nhớ hoàn toàn câu đó, mà chỉ là nhớ ý và những từ chính (keyword). Như vậy nếu bạn có thể viết lại câu đó, nghĩa là bạn đã nắm vững được ngữ pháp, coi như là đã làm một bài tập dựng câu rồi.
II. KINH NGHIỆM LUYỆN NGHE
❖ Đi vào cụ thể từ vựng tiếng Anh. Những phân tích sau đây là để thuyết phục bạn đi vào tiến trình tự nhiên và điều này đòi hỏi phải xóa bỏ phản xạ lâu ngày của mình là học theo tiến trình ngược và công việc xóa bỏ phản xạ sai này lại làm cho ta mất thêm thì giờ. Bạn đọc để tin vào tiến trình tự nhiên, chứ không phải để nhớ những phân tích ‘tào lao’ này, gây trở ngại thêm trong quá trình nâng cao kỹ năng của mình.
❖ Xóa bỏ kinh nghiệm nghe nguyên âm: Tiếng Anh là tiếng phụ âm. Tiếng Anh chủ yếu là ngôn ngữ đa âm: một từ thường có nhiều âm. Tai chúng ta đã ‘bị điều kiện hóa’ để nghe âm tiếng Việt. Tiếng Việt là loại tiếng đơn âm, vì thế, mỗi tiếng là một âm và âm chủ yếu trong một từ là nguyên âm. Đổi một nguyên âm thì không còn là từ đó nữa: ‘ma, mi, mơ’ không thể hoán chuyển nguyên âm cho nhau, vì ba từ có ba nghĩa hoàn toàn 9 khác nhau. Mặt khác, người Việt không bao giờ đọc phụ âm cuối từ. Ví dụ: trong từ ‘hát’, nguyên âm mới là ‘át’, h(à)- át. chứ không phải là h(ờ)- á- t(ơ). Trong khi đó từ ‘fat’ tiếng Anh được đọc là f(ờ)- a- t(ờ). với phụ âm ‘t’ rõ ràng. Trong tiếng Việt hầu như không có những từ với hai phụ âm đi kế tiếp (ngoại trừ “ch” và “tr” – nhưng thực ra, “ch và “tr” cũng có thể thay bằng một phụ âm duy nhất) vì thế. tai của một người Việt Nam chưa bao giờ làm quen với ngoại ngữ – không thể nhận ra hai phụ âm kế tiếp. Do đó, muốn cho người Việt nghe được một tiếng nước ngoài có nhiều phụ âm kề tiếp. thì phải thêm nguyên âm (ơ) vào giữa các phụ âm: ví dụ: Ai-xơ- len; Mat-xơ-cơ-va. Với kinh nghiệm (phản xạ) đó, một khi ta nghe tiếng Anh. ta chờ đợi nghe cho đủ các nguyên âm như mình nhìn thấy trong ký âm (phonetic signs), và không bao giờ nghe được cả. Ví dụ: khi học từ America ta thấy rõ ràng trong ký âm: ‘ơ-me-ri-kơ’, nhưng không bao giờ nghe đủ bốn âm cả, thế là ta cho rằng họ ‘nuốt chữ’.
Trong thực tế, họ đọc đủ cả, nhưng trong một từ đa âm (trong khi viết) thì chỉ đọc đúng nguyên âm ở dấu nhấn (stress) – nếu một từ có quá nhiều âm thì thêm một âm có dấu nhấn phụ (mà cũng có thể bỏ qua) – còn những âm khác thì phải đọc hết các phụ âm. còn nguyên âm thì sao cũng được (mục đích là làm rõ phụ âm). Có thể chúng ta chỉ nghe: _me- r- k, hay cao lắm là _me- rơ- k. và như thế là đủ, vì âm ‘me’ và tất cả các phụ âm đều hiện diện. Bạn sẽ thắc mắc. nghe vậy thì làm sao hiểu? Trong tiếng Việt khi nghe ‘Mỹ’ (hết) không có gì trước và sau cả. thì bạn hiểu ngay, tại sao cần phải đủ bốn âm là ơ-mẻ-ri-kơ bạn mới hiểu đó là ‘Mỹ’? Tóm lại: hãy nghe phụ âm. đừng chú ý đến nguyên âm. trừ âm có stress! 10 Một ví dụ khác: Từ interesting phải đọc là “in-tơ-res-ting’ hay “in-tơ-ris-ting” mới đúng? Không cách nào đúng, không cách nào sai.
Nhưng lối đặt vấn đề sai. Từ này chủ yếu là nói ‘in’ cho thật rõ (stress) rồi sau đó đọc cho đủ các phụ âm là người ta hiểu, vì người bản xứ chỉ nghe các phụ âm chứ không nghe các nguyên âm kia; nghĩa là họ nghe: in- trstng; và để rõ các phụ âm kế tiếp thì họ có thể nói in- tr(i)st(i)ng; in – tr(ơ)st(ơ)ng; in- tr(e)st(ư)ng. Mà các âm (i)(ơ), để làm rõ các phụ âm, thì rất nhỏ và nhanh đến độ không rõ là âm gì. Trái lại, nếu đọc to và rõ “in- tris-ting”, thì người ta lại không hiểu vì dấu nhấn lại sang ‘tris’. Từ đó, khi ta phát âm tiếng Anh (nói và nghe là hai phần gắn liền nhau – khi nói ta phát âm sai, thì khi nghe ta sẽ nghe sai!) thì điều quan trọng là phụ âm, nhất là phụ âm cuối. Lấy lại ví dụ trước: các từ fire, fight, five, file phải được đọc lần lượt là fai- (ơ)r; fai- t(ơ); fai- v(ơ), và fai- l(ơ), thì người ta mới hiểu, còn đọc Tai’ thôi thì không ai hiểu cả. Ví dụ: với từ ‘girl’ chẳng hạn. thà rằng bạn đọc “gơ- rôl / gơ- rơi” (dĩ nhiên chỉ nhấn “gơ”), sai hẳn với ký âm, thì người ta hiểu ngay, vì có đủ “r” và “l”, trong khi đó đọc đúng ký âm là ‘gơ:T hay bỏ “l” (gơ) thì họ hoàn toàn không hiểu bạn nói gì; nếu có, thì cũng do bối cảnh của câu chứ không phải là do bạn đã nói ra từ đó.
♦ Nghe tiếng Anh Ví dụ nghe một cô gái nói với một cậu trai: “I hate you!” Câu này không phải lúc nào cũng là ‘Em ghét anh’! Nói với một ngữ điệu nào đó thì có thể hiểu là: Tôi căm thù anh: hay “Thôi, để tôi yên”: hay “Anh làm tôi bực mình”. Và cách nhấn câu cũng thế. Ví dụ trong câu sau đây: I didn’t say Paul stole my watch! 11 Nếu người nói nhấn mạnh các từ theo 7 cách khác nhau, mỗi cách nhấn một từ ( I – didn’t – say – Paul – stole – my – watch) thì nghĩa sẽ khác nhau hoàn toàn: I didn’t say Paul stole my watch! (Somebody else said that! ) I didn’t say Paul stole my watch! (No! I didn’t act like that) I didn’t say Paul stole my watch! (I disclosed by another way. but I didn’t say) v.v Khi học tiếng Việt, chúng ta nghe toàn bộ ngữ điệu, nên hiểu (và nói đúng) cao độ của một từ (nói đúng các dấu): thế nhưng khi một người nước ngoài học tiếng Việt, chúng ta phải khổ công giải thích cho họ lên giọng, xuống giọng, uốn giọng như thế nào để nói các dấu sắc, huyền, nặng, hỏi – ngã (do học nghe bằng tai nên người Nam và người Trung đồng hóa các thanh hỏi và ngã. trong khi người Bắc phân biệt chúng rõ ràng).
Vì thế. ngược lại. khi nghe tiếng Anh. cần phải nghe toàn bộ âm điệu để nắm bắt những tình cảm bên trong câu nói. Nghe với cả ngữ điệu thì sẽ hiểu (và sau này sẽ dùng) những câu hay thành ngữ một cách chính xác như người bản ngữ, mà không cần phải dịch ra. Ví dụ: các câu ngắn như: Oh my God! Look at this! Hoặc: No way! Hoặc You’re joking/kidding! Với giọng điệu khác nhau, những câu nói hàng ngày đó có thể được hiểu là một tiếng khen hay chê. thán phục hay thất vọng, bằng lòng hay bất bình, chấp thuận hay từ chối! Và từ đó. người học sẽ biết cách dùng tiếng Anh cho đúng nghĩa. chứ không chỉ đúng văn phạm. Ví dụ. khi tiếp một nhân vật quan trọng đến công ty bạn. bạn chuẩn bị nói một câu mời rất trân trọng và đúng nghi thức (formal): Would you please (to) take a seat? Thế nhưng bạn căng thẳng đến độ nói theo một ngữ 12 điệu nào đó khiến người kia bực mình với bạn (mà bạn không hề biết), vì cho rằng bạn diễu cợt người ta! Thế là hỏng cả một cuộc đàm phán. Thà rằng bạn nói đơn giản: Sit down! Với một giọng hòa nhã, thái độ tôn trọng, cử chỉ lịch thiệp và nụ cười nồng hậu. thì không ai hiểu lầm bạn!

