Tải FREE sách Tuyển Tập Thành Ngữ Tục Ngữ Ca Dao Việt Anh Thông Dụng PDF

Tải FREE sách Tuyển Tập Thành Ngữ Tục Ngữ Ca Dao Việt Anh Thông Dụng PDF

Tải FREE sách Tuyển Tập Thành Ngữ Tục Ngữ Ca Dao Việt Anh Thông Dụng PDF là một trong những đáng đọc và tham khảo. Hiện Tải FREE sách Tuyển Tập Thành Ngữ Tục Ngữ Ca Dao Việt Anh Thông Dụng PDF đang được SkyLead chia sẻ miễn phí dưới dạng file PDF.

=> Nhấn nút Tải PDF ngay ở bên dưới để tải Tải FREE sách Tuyển Tập Thành Ngữ Tục Ngữ Ca Dao Việt Anh Thông Dụng PDF về máy của bạn nhé!

Mô tả sách / Tài liệu

Để giúp bạn có cái nhìn sơ lược và làm quen trước với nội dung, đội ngũ biên tập của chúng tôi đã trích dẫn một phần nhỏ từ cuốn sách ngay bên dưới. Nếu bạn muốn đọc toàn bộ tác phẩm này, hãy nhấp vào nút “Tải PDF ngay” ở phía trên để tải về bản tiếng Việt đầy đủ hoàn toàn miễn phí nhé!

I. PHÂN BIỆT THÀNH NGỮ VỚI TỤC NGỮ

Khi sắp hoàn thành việc sưu tầm của mình, tôi có ý định ghi rõ đơn vị tiếng Việt nào là thành ngữ hay tục ngữ để những ai cần đọc có nhiều thuận lợi trong việc sử dụng tài liệu này. Nhưng tôi thấy ngay là mình gặp phải một khó khăn rất lớn.

Trước tiên, tôi đưa vào quyền Tục ngữ Việt Nam của nhà xuất bản Khoa học Xã hội (1975) thì thấy có sáu đơn vị tiếng Việt thuộc tâm là tục ngữ. Đến khi tôi xem cuốn Từ điển giải thích thành ngữ tiếng Việt của Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia – Viện Ngôn ngữ học (1998) thì lại có 12 ra là hầu hết các đơn vị đó là thành ngữ. Tôi xin trích dẫn một số trường hợp có sự sắp xếp không thống nhất ở hai cuốn sách đó như:

  • Sai một ly đi một dặm
  • Cá lớn nuốt cá bé
  • Ăn có thì trước, lời nước đi sau
  • Một giọt máu đào hơn ao nước lã
  • Ở nợ, nợ chi, chơi chon bon
  • Giàu đổi bạn, sang đổi vợ

Tôi thấy hoang mang quá và quyết định không dám thực hiện ý đồ phân loại rõ ràng đâu là tục ngữ, đâu là thành ngữ tiếng Việt nữa vì về mặt này khả năng của tôi chưa cho phép. Tuy nhiên, tôi thấy cũng phải rút ra một số định hướng cho bản thân và giúp cho các đồng nghiệp cùng học sinh khi đọc tài liệu này có những nhận định cá nhân trong việc phân biệt tục ngữ với thành ngữ.

Theo định nghĩa trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học – Nhà xuất bản Đà Nẵng (1977):

“Thành ngữ là tập hợp từ cố định đã quen dùng mà nghĩa của nó thường không thể giải thích được một cách đơn giản bằng nghĩa của các từ tạo nên nó.”

Ví dụ:

  • Một nắng hai sương
  • Rán sành ra mỡ
  • Đấm ba chè củ

“Tục ngữ là câu ngắn gọn, thường có vần điệu, đúc kết tri thức, kinh nghiệm sống và đạo đức thực tiễn của nhân dân.”
Ví dụ:

  • Đói cho sạch, rách cho thơm
  • Một giọt máu đào hơn ao nước lã
  • Thừa người nhà mỏi ra người ngoài

Qua hai định nghĩa trên, ta chưa thấy hết được sự khác nhau giữa thành ngữ và tục ngữ mà phải phân tích thêm như sau:


1. Về mặt nội dung

Tục ngữ là một câu nói hoàn chỉnh, diễn đạt trọn vẹn một ý mang nội dung nhận xét quan hệ xã hội, truyền đạt kinh nghiệm sống, cho bài học luân lý hay phê phán sự việc. Do đó, một câu tục ngữ có thể được coi là một “tác phẩm văn học” hoàn chỉnh vì nó mang trong mình cả ba chức năng cơ bản của văn học:

  • chức năng nhận thức,
  • chức năng thẩm mỹ,
  • chức năng giáo dục.

Ví dụ: tục ngữ Việt Nam “Thuận vợ thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn” chứa đựng nhận xét về sức mạnh đoàn kết, kinh nghiệm sống và làm việc có hợp thì mới đem lại kết quả, một luận lý trong quan hệ vợ chồng.


2. Về mặt ngữ pháp

Thành ngữ là một cụm từ cố định, xét về mặt ngữ pháp thì nó chưa thể là một câu hoàn chỉnh. Nó chỉ là một đơn vị nhỏ, một hình ảnh, một nhận xét ngắn gọn để góp phần tạo nên sắc thái biểu cảm trong câu nói.


3. Về mặt tư duy – logic

Thành ngữ thiên về đặc điểm và mối quan hệ giữa khái niệm với nhau để được coi là nhận thức; còn tục ngữ thiên về suy luận và phán đoán.

Ví dụ cặp khái niệm trong thành ngữ và tục ngữ:

  • Thành ngữ nói đến khái niệm, ví dụ:
    sự uổng công” → biểu thị quá trình khái quát nhận xét hiện tượng như nước đổ lá khoai, nước đổ đầu vịt, đá trăng xe cát
  • Tục ngữ nói đến phán đoán, ví dụ:
    Nước đổ đầu vịt thì nước lại trôi đi hết”,
    Nước đổ lá khoai thì nước lại trôi đi hết”.

4. Về chức năng

  • Thành ngữ chủ yếu thể hiện chức năng định danh (đặt tên khái niệm, đặc điểm…).
  • Tục ngữ chủ yếu có chức năng thông báo (đưa ra nhận định, kết luận, kinh nghiệm sống).

Bảng so sánh tổng quát thành ngữ và tục ngữ

Bình diện nghiên cứuThành ngữTục ngữ
Kết cấu ngữ phápCụm từ cố định tương đương một từCâu hoàn chỉnh
Chức năng văn họcChức năng thẩm mỹChức năng thẩm mỹ, chức năng nhận thức, chức năng giáo dục
Hình thức tư duy – logicDiễn đạt khái niệm, khái quát những hiện tượngDiễn đạt phán đoán, khẳng định một thuộc tính của hiện tượng
Chức năng của các hình thức ngôn ngữĐịnh danh hiện tượng, biểu thị các từ ngữThông báo thuộc lĩnh vực hoạt động nhận thức
Bản chấtHiện tượng thuộc lĩnh vực ngôn ngữHiện tượng thuộc đời sống xã hội, kinh nghiệm, văn hóa dân gian

Gạt qua cái vỏ ngôn ngữ, cái đặc thù của từng dân tộc, chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy sự đồng nhất về tư duy và nhận thức của các dân tộc khác nhau trong một câu tục ngữ.

Riêng về tục ngữ của hai dân tộc Việt và Anh, chúng ta thấy nhiều câu giống nhau cả về tư duy, nhận thức cũng như phương pháp biểu hiện tuy chúng mang đậm nét đặc thù của hai dân tộc. Chỉ cần bằng vốn sống, bằng so sánh chứ không cần tra cứu, chúng ta cũng dễ dàng tìm thấy những câu tương đồng trong kho tàng tục ngữ Anh và Việt.

  • Xa mặt cách lòng.
    Out of sight, out of mind – (xa mặt cách lòng)
  • Tai vách mạch rừng.
    Walls have ears – (Tường vách có tai)
  • Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi.
    Spare the rod, and spoil the child.
    (Để đánh chiếc roi làm hư đứa trẻ)
  • Của rẻ là của ôi.
    Cheapest is dearest – (Rẻ nhất lại là đắt nhất)
  • Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.
    Man proposes, God disposes.
    (Người dự định, trời quyết định.)
  • Mất bò mới lo làm chuồng.
    It is too late to lock the stable when the horse is stolen.
    (Mất ngựa rồi mới khoá cửa chuồng thì quá muộn.)
  • Thả con săn sắt, bắt con cá rô.
    Throw a sprat to catch a herring.
    (Thả cá cơm để bắt con cá trích.)

Điểm giống nhau thứ hai là trong một câu tục ngữ Việt hoặc Anh có thể chứa một câu thành ngữ. Ví dụ trong câu tục ngữ Việt “Chồng yêu, vợ chảnh lỗ mũi” có thành ngữ “xỏ chân lỗ mũi”. Hoặc trong câu tục ngữ “Chạy nhà hàng xóm, bình chân như vại” thì có thành ngữ “bình chân như vại”. Chúng ta cũng tìm thấy điều đó trong tục ngữ Anh. Ví dụ trong câu tục ngữ “Don’t put all your eggs in one basket” có chứa thành ngữ “put all one’s eggs in one basket”.
Hoặc trong câu tục ngữ “Birds of a feather flock together” có chứa thành ngữ “birds of a feather”.

Một điểm giống nhau nữa là trong lời nói của mình, người Việt ta cũng như người Anh có thể phá vỡ kết cấu của câu tục ngữ sẵn có, thay đổi đi một chữ để sử dụng vào mục đích diễn đạt riêng của bản thân mình cho đúng với tâm trạng cụ thể nào đó. Thí dụ trong tiếng Việt, từ những câu:

  • Ăn nên đọi, nói lên lời.
    Cái khó bó cái khôn.

Có người đã chuyển thành ra:

  • Ăn không nên đọi, nói không lên lời.
    Cái khó ló cái khôn.

Cũng như vậy trong tiếng Anh, từ câu tục ngữ “Man proposes, God disposes” có người đã phá vỡ kết cấu để nói bằng cách thay thế cặp danh từ này bằng cặp danh từ khác tạo thành biến thể như “The writer proposes, the readers dispose”. Sự thay đổi này tạo hiệu quả sinh ra một câu tục ngữ mới có nội dung thực sự phù hợp với đề tài câu chuyện mà người đó đề cập đến.
Hoặc trong câu tục ngữ “Never put off until tomorrow what we can do today” ta có thể dễ dàng thay động từ “do” bằng “eat” hoặc “buy”… để làm cho lời nói thêm tính hài hước, dễ làm cho người nghe thấy vui và đồng ý thực hiện mong muốn của mình.

2. Những nét khác biệt giữa tục ngữ Anh và Việt

Tuy nhiên chúng ta thấy điều kiện tự nhiên, xã hội khác nhau tạo ra bối cảnh sống và nhận thức văn hoá khác nhau, thể hiện về mặt tục ngữ của hai dân tộc Việt và Anh có những khác biệt khá rõ.

Điểm khác nhau thứ nhất là những câu tục ngữ nói về kinh nghiệm sản xuất, khí tiết, thiên nhiên chiếm một phần rất lớn trong kho tàng tục ngữ Việt Nam, thể hiện rất rõ đặc tính của một cư dân nông nghiệp lúa nước làm lương thực chính. Ví dụ như những câu tục ngữ:

  • Tốt giống, tốt mạ, tốt má, tốt lúa.
  • Một lượt tát, một bắt con.
  • Muốn giàu nuôi trâu cái, muốn lụn bại nuôi bò cạp.
  • Đầu năm sương muối, cuối năm gió nồm…

Những tục ngữ như thế thật khó mà tìm được câu tương đương trong tiếng Anh, bởi lẽ tục ngữ nước Anh hầu như tập trung phản ánh môi quan hệ xã hội, ít đề cập tới môi quan hệ với thiên nhiên hoặc kinh nghiệm sản xuất.

Điểm khác nhau thứ hai là trong tục ngữ Việt Nam tính phản phong, tính đấu tranh giai cấp được thể hiện rất rõ nét, rất quyết liệt trong một số tục ngữ nhằm phê phán, chỉ trích thói xấu của bọn quan lại tham ô, hại dân hại nước hoặc nhằm tố cáo những cái xấu xa của giai cấp thống trị, đồng thời phơi bày những mâu thuẫn giữa nông dân với giai cấp quan lại nhân phong. Ví dụ như những câu:

  • Miệng quan, trôn trẻ.
  • Quan thấy kiện như kiến thấy mỡ.
  • Ăn cơm nhà làm quan nhà nước.
  • Thì làm cho đẹp mặt, bốc bát đĩa.
  • Ba tiền ba thóc, ba cóc gì ai…

Trong khi đó, tục ngữ tiếng Anh có tính phản phong rất mờ nhạt, tính đấu tranh giai cấp không quyết liệt… thể hiện ở số lượng ít ỏi, lời lẽ và hình ảnh kín đáo chứ không táo bạo, sâu cay. Chúng ta chỉ gặp một số ít câu nói lén quan đến vua chúa, luật pháp bất công như:

  • A cat may look at a king.
    (Chó mèo nhỏ dám ngó mặt vua)
  • One law for the rich and another for the poor.
    (Luật trước cho người giàu, luật sau cho kẻ khó.)